Phân tâm học là gì? Các công bố khoa học về Phân tâm học
Phân tâm học (hay còn gọi là tâm lý học phân tâm) là một nhánh trong lĩnh vực tâm lý học nghiên cứu về cách thức tư duy và xử lý thông tin của con người. Nó tập...
Phân tâm học (hay còn gọi là tâm lý học phân tâm) là một nhánh trong lĩnh vực tâm lý học nghiên cứu về cách thức tư duy và xử lý thông tin của con người. Nó tập trung nghiên cứu về quy trình xử lý thông tin trong tâm trí, bao gồm nhận thức, tri giác, suy luận và ghi nhớ. Phân tâm học cũng quan tâm đến việc hiểu những vấn đề như tập trung, nhớ, quên, suy nghĩ, giải quyết vấn đề và quyết định. Mục tiêu chính của phân tâm học là tìm hiểu xem làm thế nào tâm trí của con người hoạt động và ảnh hưởng đến hành vi và trí tuệ của họ.
Phân tâm học là một lĩnh vực nghiên cứu tâm lý học trên cơ sở của lý thuyết thông tin và quá trình xử lý thông tin trong tâm trí của con người. Nó tập trung vào việc hiểu được cách thức con người nhận thức, hiểu và xử lý thông tin từ môi trường xung quanh.
Các khái niệm cơ bản trong phân tâm học bao gồm:
1. Nhận thức: Nghiên cứu về cách thức con người thu thập, giữ và sử dụng thông tin từ môi trường. Gồm có quá trình nhận thức cơ bản như thị giác, nghe và cảm xúc.
2. Tri giác: Nghiên cứu về quá trình nhận thức tự động và vô thức, bao gồm việc nhận biết, đánh giá và gán ý nghĩa cho các sự kiện và đối tượng.
3. Suy nghĩ: Nghiên cứu về quá trình tư duy và suy luận. Bao gồm việc xử lý, phân tích và đưa ra kết luận từ thông tin.
4. Ghi nhớ: Nghiên cứu về quá trình lưu trữ thông tin trong bộ nhớ và truy cập lại thông tin đã ghi nhớ.
5. Tập trung: Nghiên cứu về quá trình tập trung và giữ sự tập trung trong việc xử lý thông tin.
6. Quên: Nghiên cứu về quá trình quên thông tin và các yếu tố ảnh hưởng đến việc ghi nhớ và ghi lại thông tin.
7. Giải quyết vấn đề và quyết định: Nghiên cứu về cách con người tiếp nhận, phân tích và giải quyết vấn đề, cũng như quyết định trong tình huống khác nhau.
Phân tâm học áp dụng các phương pháp nghiên cứu như thí nghiệm, quan sát, khảo sát và mô hình hóa để tìm hiểu quy trình tâm trí của con người. Các ứng dụng của phân tâm học bao gồm hiểu biết về hiệu quả của các phương pháp giảng dạy, phát triển công nghệ và giao diện người-máy đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu của con người.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phân tâm học":
Trong các phương pháp tiếp cận mạng về tâm thần học, các rối loạn phát sinh từ sự tương tác nguyên nhân giữa các triệu chứng (ví dụ, lo âu → mất ngủ → mệt mỏi), có thể liên quan đến các vòng phản hồi (ví dụ, một người có thể lạm dụng chất kích thích để quên đi những vấn đề phát sinh do lạm dụng chất này). Bài đánh giá hiện tại xem xét các phương pháp phù hợp để xác định các mạng triệu chứng và thảo luận về các kỹ thuật phân tích mạng có thể được sử dụng để trích xuất thông tin có giá trị lâm sàng và khoa học từ các mạng đó (ví dụ, triệu chứng nào là trung tâm nhất trong mạng lưới của một người). Các tác giả cũng chỉ ra cách các kỹ thuật phân tích mạng có thể được sử dụng để xây dựng các mô hình mô phỏng bắt chước động lực triệu chứng. Các phương pháp tiếp cận mạng giải thích một cách tự nhiên sự thành công hạn chế của các chiến lược nghiên cứu truyền thống, vốn thường dựa trên ý tưởng rằng các triệu chứng là biểu hiện của một yếu tố chung tiềm ẩn nào đó, đồng thời cung cấp các phương pháp thay thế hứa hẹn. Thêm vào đó, các kỹ thuật này có thể mở ra khả năng hướng dẫn và đánh giá các can thiệp điều trị.
Quá trình suy reasoning của con người đi kèm với những trải nghiệm siêu nhận thức, nổi bật nhất là sự dễ dàng hoặc khó khăn trong việc hồi tưởng và tạo ra suy nghĩ, cùng với sự lưu loát mà thông tin mới có thể được xử lý. Những trải nghiệm này có giá trị thông tin riêng của chúng. Chúng có thể đóng vai trò làm cơ sở đánh giá ngoài thông tin khẳng định, hoặc thậm chí làm giảm giá trị của thông tin khẳng định, và có thể làm rõ các kết luận được rút ra từ nội dung được hồi tưởng. Điều mà con người rút ra từ một trải nghiệm siêu nhận thức cụ thể phụ thuộc vào lý thuyết ngây thơ mà họ áp dụng cho các quá trình tâm lý, khiến cho các kết quả trở nên rất khác nhau. Các đánh giá thu được không thể được dự đoán chỉ dựa trên thông tin khẳng định có sẵn; chúng ta không thể hiểu sự phán đoán của con người mà không xem xét sự tương tác giữa thông tin khẳng định và thông tin trải nghiệm.
Các chất hướng thần mới (NPS) là thách thức cho các nhà độc chất pháp y và lâm sàng, cũng như các nhà lập pháp. Chúng tôi trình bày phát hiện của mình từ các trường hợp mà các NPS đã được phát hiện trong vật liệu sinh học. Trong khoảng thời gian ba năm từ 2012–2014, chúng tôi đã phát hiện NPS trong 112 trường hợp (trong tổng số 1058 đã phân tích), với 75 trường hợp chỉ riêng năm 2014. Mức độ phổ biến của tất cả các NPS (15,1–17,6%) tương tự như amphetamine chỉ phát hiện được trong 15,1–16,5% trường hợp. Các loại thuốc mới được phát hiện thuộc các lớp sau: cathinones (88%), cannabinoid tổng hợp (5%), phenethylamines (3%), piperazines và piperidines (3%), arylalkylamines (1%) và khác (1%). Các loại thuốc được phát hiện (theo thứ tự giảm dần tần suất): 3‐MMC (50), α‐pyrrolidinopentiophenone (α‐PVP) (23), pentedrone (16), 3',4'‐methylenedioxy‐α‐pyrrolidinobutyrophenone (MDPBP) (12), cannabinoid tổng hợp UR‐144 (7), ethcathinone (5), mephedrone (5), methylenedioxypyrovalerone (MDPV) (4), 4‐methylethcathinone (4‐MEC) (3), buphedrone (3), desoxypipradrol (2‐DPMP) (3), methylone (2) và 2C‐B (2). Trong các trường hợp đơn lẻ, phát hiện 2‐methylmethcathinone (2‐MMC), 2C‐P, eutylone, 25I‐NBOMe, meta‐chlorophenylpiperazine (mCPP), ephedrone, methiopropamine (MPA) và 5‐(2‐aminopropyl)benzofuran (5‐APB). Một NPS là tác nhân duy nhất trong 35% tổng số trường hợp và hai hoặc nhiều NPS có mặt trong 19% các trường hợp. NPS (một hoặc nhiều chất) cùng với các thuốc truyền thống khác (như amphetamine, cannabinoid, cocaine và benzodiazepines) đã được phát hiện trong hầu hết (65%) các trường hợp. NPS thường xuyên được phát hiện trong máu của tài xế lái xe là thách thức cho các nhà độc chất do thiếu dữ liệu về ảnh hưởng của chúng đến hiệu suất tâm lý vận động. Một đánh giá về nồng độ đã cho thấy một dãy giá trị rộng trong các loại trường hợp khác nhau, đặc biệt là lái xe dưới ảnh hưởng của ma túy (DUID) và ngộ độc. Bản quyền © 2015 John Wiley & Sons, Ltd.
Nghiên cứu xem liệu protein được cảm ứng bởi chất đối kháng vitamin K-II (PIVKA-II) kết hợp với alpha-fetoprotein (AFP) có thể cải thiện độ chính xác trong chẩn đoán và phân biệt các khối u gan ở trẻ em.
Một nghiên cứu quan sát tiến cứu đa trung tâm được thực hiện tại chín cơ sở khu vực ở Trung Quốc. Trẻ em có khối u gan (Nhóm T) được chia thành nhóm u nguyên bào gan (Nhóm THB) và nhóm u máu nội mô gan (Nhóm THE), trẻ em có khối u ở vùng bụng ngoài gan (Nhóm C). Máu ngoại vi được lấy từ mỗi bệnh nhân trước khi phẫu thuật hoặc hóa trị. Diện tích dưới đường cong (AUROC) được sử dụng để đánh giá hiệu suất chẩn đoán của PIVKA-II và các dấu ấn khối u kết hợp với AFP.
Mức trung bình của PIVKA-II và AFP đều cao hơn đáng kể ở Nhóm T so với Nhóm C (
Mức serum của PIVKA-II cao hơn đáng kể ở trẻ em có khối u gan, đặc biệt là ở những khối u ác tính. Sự kết hợp giữa PIVKA-II và AFP đã cải thiện thêm hiệu suất chẩn đoán.
Clinical Trials, NCT03645655. Đã đăng ký ngày 20 tháng 8 năm 2018,
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6